Có những ngày, ông Duy thấy mình giống như cái cây giữa ngã ba làng – chỗ nào người ta cũng đi qua, chỗ nào cũng có tiếng nói, tiếng cười, tiếng trách móc, và thỉnh thoảng… là tiếng nặng nhẹ chẳng dành riêng cho ai.
Hồi còn trẻ, ông là người cục tính. Ai nói trái ý, ông gắt. Ai làm sai, ông sửa ngay giữa chợ. Vợ ông hay nói vui rằng: “Ông làm như là cả làng này không có ông thì không ai nói ra phải trái.” Vậy mà càng lớn tuổi, ông lại càng ít nói. Không phải vì ông không biết đúng sai, mà vì ông biết: nói đúng cũng phải đúng lúc, đúng cách. Và đôi khi… đúng mà không từ bi, thì vẫn làm người khác đau.
Tuy vậy, có một điều ông rút ra sau nhiều năm sống mềm lại, ấy là: mềm không có nghĩa là nhu nhược. Từ bi không có nghĩa là im lặng trước điều sai.
Có một lần, ở đầu xóm có một cậu thanh niên vừa thất nghiệp, lại mới chia tay người yêu. Cậu hay ngồi ở quán nước đầu đường, tay lúc nào cũng vân vê cái bật lửa, mắt thì lơ đãng như đang tìm ai để đổ lỗi. Bữa đó, ông Duy đi qua, cậu gọi lại, rót cho ông chén nước rồi kể lể cả buổi: nào là người yêu bạc bẽo, bạn bè phản trắc, xã hội không công bằng…
Ông Duy ngồi nghe, thỉnh thoảng gật đầu, chép miệng. Nhưng khi cậu nói đến đoạn: “Em chán lắm bác ạ. Nhiều lúc chỉ muốn đập phá cho hả giận… Ai nói gì cũng thấy đáng ghét!” – thì ông đặt chén nước xuống, nhìn thẳng vào mắt cậu, nói bằng một giọng không lớn, nhưng dứt khoát:
“Thương mình thì phải biết kiềm chế. Chứ không ai thương nổi một người lúc nào cũng đòi làm tổn thương người khác đâu, cháu ạ.”
Cậu thanh niên cứng người. Không nói thêm. Không phản ứng. Nhưng từ hôm sau, người ta không còn thấy cậu đập bàn chửi bậy nữa.
Về đến nhà, vợ ông hỏi: “Ông mắng nó đấy à?” Ông cười, lắc đầu: “Không mắng. Nhưng cũng không gật.”
Rồi ông chậm rãi nói, như đang tự nhắc mình: “Từ bi là thương. Nhưng thương không có nghĩa là chiều. Có lúc mình cần nắm tay người ta, có lúc… phải buông ra cho họ đứng lên một mình.”
Càng về già, ông Duy càng tin rằng lòng tốt phải đi kèm với sự tỉnh táo. Có lần hàng xóm nhờ ông đứng tên vay hộ ít tiền. Người đó nói ngọt như mía lùi, đưa cả hợp đồng ra mà ký sẵn. Ông không ký. Không vì ông không thương. Mà vì ông biết, nếu chuyện chẳng lành, thì chính ông sẽ làm khổ vợ con. Mà khổ người thân vì một lời cả nể – là không phải từ bi.
Ông bảo: “Làm việc tốt không khó. Khó là biết đâu là việc mình nên làm.”
Từ bi – nếu không có trí tuệ đi kèm, dễ biến thành mù quáng. Nghe chuyện, thương người, rồi giúp vô tội vạ – hóa ra lại làm hại.
Có lần ông chứng kiến một bà cụ bị ăn trộm ví ở chợ. Người lấy là một đứa nhỏ tầm mười ba tuổi. Mọi người xúm lại, có người chửi, có người định đánh. Ông bước tới, nói nhẹ: “Đừng đánh. Nhưng không thể bỏ qua.”
Rồi ông kéo đứa bé vào góc, hỏi tên tuổi, nhà cửa, gọi mẹ nó ra, bắt phải hoàn tiền và xin lỗi cụ bà ngay giữa chợ.
Không ồn ào, không nặng nề, nhưng đủ để đứa bé nhớ cả đời.
Sau này, người trong xóm hay nhắc: “Ông Duy giờ sống hiền lắm.” Có người bảo: “Gặp ai cũng thấy ông ấy cười.”
Nhưng ít ai biết rằng, phía sau nụ cười ấy là một cái đầu không hề nhẹ. Một trái tim biết khi nào cần mở, và khi nào phải giữ lại để không bị lợi dụng. Một cái tâm biết rộng lượng nhưng không dễ dãi.
Tôi từng hỏi ông: “Có khi nào ông thấy từ bi… mệt không?” Ông ngẫm một lát rồi bảo: “Từ bi mà không mệt là chưa tới nơi. Nhưng từ bi mà mù quáng thì… đi lạc mất rồi.”
Vậy nên, từ bi không phải là ai nói gì mình cũng gật. Không phải là cứ người ta khóc là mình chạy đến. Không phải là luôn luôn im lặng chịu đựng để giữ hoà khí. Từ bi là khi mình đủ lắng nghe, đủ tỉnh táo, đủ kiên nhẫn – để biết thương đúng lúc, đúng người, đúng cách. Là khi mình không để cảm xúc lấn át lý trí, mà vẫn giữ được sự ấm áp giữa đời lạnh. Là khi mình sống sao để không làm ai đau – kể cả chính mình – bởi cái sai của lòng tốt thiếu sáng suốt.
—
Trông người mà nghĩ đến ta,
Thương người rồi lại xót xa thân mình.