Có những giai điệu bước vào đời ta nhẹ như gió, mơn man rồi ở lại như vệt hoàng hôn khép mi mắt, và “Chuyện hợp tan” của nhạc sỹ Quốc Dũng chính là một giai điệu như thế – một mảnh trăng mỏng trôi chầm chậm qua ký ức, soi xuống mặt sông tâm hồn, lấp lánh những đốm lửa hiền từ của niềm tin và bao dung. Khi tiếng đàn guitar nhấn nhá câu dạo, ta nghe một tiếng khẽ vén màn kỷ niệm, mở ra khung cảnh đồng quê bảng lảng sương khuya, nơi bước chân người về muộn khẽ khuấy động con đê nhỏ, nơi lặng thinh đồng lúa là ngọt dịu cho câu chuyện gặp gỡ và chia phôi muôn thuở của thân phận. Nhạc sỹ đã gieo vào tác phẩm một nỗi buồn văn minh: buồn mà không tuyệt vọng, day dứt nhưng vẫn dịu dàng như trăng non treo giữa trời; vì ở cuối con đường mỗi cuộc xa cách vẫn thấp thoáng ngọn đèn làng, những bàn tay sẵn sàng mở cửa đón nhau về, bất chấp bao mùa nước lớn nước ròng. Trong dòng chảy mênh mang ấy, ca từ “Đêm nay lặng lẽ sương mù về giăng trên mảnh tình quê” bỗng giống lời thầm thì của đất, của nước, của gió – những yếu tố ngũ hành đang âm thầm chuyển động để nuôi dưỡng, để hoán đổi, để nhắc nhở rằng sinh diệt vốn là hơi thở tự nhiên của vũ trụ. Ta chợt nhận ra chính vì có “tan” nên “hợp” mới quý, chính vì có phút bập bùng ly biệt nên mỗi giây hội ngộ đều như ngọn nến thắp lên giữa gió; và xuyên suốt cả bản nhạc, niềm lạc quan âm ỉ ấy phát sáng ngang hàng cùng nỗi bùi ngùi, khiến bài hát vừa giống một chén trà sen ban sớm, vừa giống ly rượu gạo Hoa Lệ ấm đêm đông – thanh tao mà đậm đà, dịu ngọt mà nồng nàn, nhút nhát mà bùng cháy.
Trong cảnh gió trắng lung linh ấy, mỗi ca sỹ đã chọn cho mình một ánh sao riêng riêng, dưỡng bằng cảm xúc và kỹ thuật của cá nhân để đặt vào giải ngân hà âm nhạc, tạo nên những khúc xạ màu sắc khiến “Chuyện hợp tan” biến ảo như tinh cầu xoay quanh mặt trời cảm xúc của người nghe. Bảo Yến, người bạn đời và tri kỷ nghệ thuật của nhạc sỹ, hát như đang ru chính kỷ niệm của mình. Chị bắt đầu ở quãng trầm nâu ấm, hơi thở phả lên chữ đầu câu mỏng như tấm lụa Hà Đông, rồi uyển chuyển lướt qua từng nốt tựa khói lam chiều cuộn tròn trên mái rạ. Người ta nói giọng hát Bảo Yến có vị “sương” và vị “lửa” – sương của xứ nhiệt đới mong manh, lửa của bếp chiều quấn quýt, và sự pha trộn ấy giúp chị gieo được hạt mầm dịu ngọt vào tầng mạch cảm xúc sâu nhất. Khi chị buông chữ “vút cao”, âm thanh bay lên như cánh diều khung đột ngột gặp luồng gió mạnh, rời khỏi bóng tre làng, vẽ một đường parabole màu nắng, để khi rơi xuống lại là khoảnh khắc tiếng guitar rải tiếp từng giọt lam mờ trên đồng cỏ. Chị không cố gắng khuấy động cao trào, mà để lời ca như dòng sông mạch ngầm, chảy miên man qua tầng đất ký ức, len lỏi dưới những phiến đá quen – nơi niềm vui, nỗi đau, hy vọng, cam chịu đã từng ăn ngủ cùng ta. Nghe Bảo Yến hát, ta không khóc òa, mà thấy lòng mình lặng đi trong veo, giống mặt hồ sớm mai chỉ gợn rung khi cá quẫy nhẹ, rồi bình yên soi bóng trời.
Chuyển sang Ngọc Sơn, ta bắt gặp chàng lãng tử bolero khoác lên ca khúc chiếc áo rumba khoan thai, lắc lư theo nhịp maracas gõ từng hạt reo vui. Lúc đó, anh còn rất trẻ, tôi nghe anh hát qua băng cát-sét, chiếc ra đi ô gờ ép 319 cũ đã rè bởi thường hoạt động quá công suất trong những trưa nắng gió. Ở anh có chất thân thương của chợ quê, có nhịp bước chậm rãi của người đi dạo sau bữa cơm chiều, và có nụ cười hiền dưới mái hiên lá; chính vì thế, “Chuyện hợp tan” qua Ngọc Sơn trở nên đồng bằng, trở nên hương rạ, trở nên chiếc võng đung đưa trưa hè. Anh kéo dài nguyên âm cuối, rung giọng ở ngực rồi vút láy nhẹ nơi đầu mũi, giống ai đó vừa kể chuyện vừa cười, sợ người nghe buồn mà giấu đi phần nước mắt trong khóe mắt. Mỗi khi anh chốt câu bằng tiếng ngân “ơi…”, ta như nhìn thấy ngọn đèn dầu treo ngoài sông, ánh lửa nhỏ liu riu soi con đường tre nứa, mời gọi người lữ khách dừng chân nghỉ gót. Ngọc Sơn chẳng hô biến ca khúc thành màn trình diễn pháo hoa, anh chỉ thắp ngọn đèn bình dị, nhưng dưới ánh sáng ấy, kỷ niệm của ta và bạn bè, ta và người thương, ta và một thời thơ dại, hiện lên rõ ràng, rõ đến nao lòng.
Nếu Bảo Yến dìu ta qua cánh đồng sương, Ngọc Sơn đưa ta lên con đò ký ức, thì Thanh Tuyền lại dựng cho ta ngọn lửa Đà Lạt mù sương, rạo rực giữa đêm cao nguyên. Giọng nữ cao vang sáng của chị ùa đến như tiếng chuông nhà thờ ngân trong sương mỏng, dội vào vách núi, chạm mái thông reo. Chị thích rung nguyên câu dài, để dòng hơi dao động rộng, gợi hình ảnh biển âm thanh cuộn sóng. Tới chữ “nước mắt”, chị không chùng xuống mà bật âm kim loại óng ánh, giống giọt lệ pha lê rơi vào chậu đồng, vang ngân rồi tan trong khoảng không. Rồi chị bất ngờ đổ dốc quãng trầm, dịu nhẹ vỗ về, như mẹ xoa vai con sau cơn nấc. Năng lượng của Thanh Tuyền là năng lượng lửa – lửa làm đồ gốm, lửa nung nỗi đau thành sứ bền, lửa ủ men để nỗi nhớ lên hương; nên nghe chị hát, buồn không còn là vũng lầy, buồn hóa thành đất bazan phì nhiêu, nơi cây cà phê, cây hồng, cây mai anh đào bám rễ vươn lên nở rộ.
Rồi Quang Lê xuất hiện, mái chèo ký ức trôi chậm giữa sông Hương bảng lảng khói sương. Giọng nam trung ngọt như chè bắp, mượt như gió La Khê, mỗi chữ “thương” anh giữ lâu, mỗi chữ “mưa” anh khẽ láy, gợi tiếng mưa dầm Huế tí tách bên hiên. Anh trung thành nhịp bolero cổ điển, để guitar điện ngân ngân, accordion rền rĩ sau lưng, tạo không gian phòng trà xưa, nơi bàn tay ai đó đang cầm tách cà phê sẫm, khói thơm pha quyện cùng tiếng ghi‑ta nylon. Quang Lê hát chậm, rất chậm, chậm đến độ người nghe đủ thời gian bước vào ký ức mình, nhặt lên chiếc lá phượng ép sổ, vuốt ve dòng lưu bút, mỉm cười nhìn lại bóng thiếu niên trong tà áo dài phất phơ qua cổng trường. Buồn ở giọng hát anh giống lụa tơ tằm – mềm, mướt, có độ rủ, chạm vào da mang theo chút mát lành của ngọn gió phương Nam, khiến ta thoáng rùng mình rồi lại thở phào chấp nhận. Chính chất “buồn hiền” ấy biến bài hát thành người bạn cùng mâm cơm tối gia đình, dễ gần, dễ sẻ chia, như chén canh chua ngọt sau ngày lao động vất vả.
Sau bốn dòng sông cảm xúc ấy, Mỹ Tâm dắt ta lên chuyến tàu phố thị rực rỡ đèn neon. Cô lựa nhịp ballad pha chút funk, piano đệm hợp âm bạt gió, bass lướt nhẹ như bánh xe điện lăn trên ray, trượt qua những tòa nhà lấp lánh. Mỹ Tâm hát quãng trầm mộc, không rung, như lời tự sự gửi cho chính mình, rồi bùng nổ ở điệp khúc bằng hơi khỏe, lật lưỡi đặc trưng, biến “Em ơi có hay” thành hồi còi tàu reo vui thúc giục. Cô còn ngẫu hứng ad‑lib “la‑la” cuối bài, thêu thêm tầng màu son trẻ trung khiến khúc ca bốn mươi năm tuổi khoác áo mới mà vẫn giữ linh hồn xưa – như phố cổ treo đèn lồng bên cạnh quán cà phê hiện đại, như cầu Long Biên đổ bóng xuống đường chợ sầm uất. Nhờ Mỹ Tâm, “Chuyện hợp tan” chạm tay thế hệ mạng xã hội, nhắc những trái tim trẻ hãy cứ dấn thân, vì hợp hay tan, ở cuối cùng vẫn là hành trình học yêu, học đi, học về.
Năm tiếng hát – năm mùa trong một năm cảm xúc: Bảo Yến là xuân lặng lẽ mai nở ven hiên; Ngọc Sơn là hạ rộn ràng ve ngân trên gốc phượng; Thanh Tuyền là thu bazan hanh hao gió núi; Quang Lê là đông dịu hiền sương trắng phố cổ; Mỹ Tâm là mùa của đô thị không tên, mọc lên từ giao thoa bốn mùa cũ, nhộn nhịp mà nồng nàn. Họ cùng đứng quanh quỹ đạo “Chuyện hợp tan”, mỗi người là một vệ tinh phát sóng ký ức, và chúng ta – những thính giả rong ruổi – chỉ cần hé cửa trái tim là âm vang ấy ùa vào, tưới mát vườn cảm xúc, thắp lên những vì sao hy vọng trên vòm đêm riêng.
Nói về con sông nào khiến tôi dừng chân lâu nhất, tôi xin chọn bài hát của chị Bảo Yến. Anh Ngọc Sơn làm người nghe không thể quên được với tiếng hát của mình, nhưng lúc anh còn trẻ, tôi thấy chuyện hợp – tan của một giờ, một ngày, một tháng mà chưa cảm nhận được hợp – tan của một kiếp nhân sinh . Bảo Yến, không phải vì chị là người thân của nhạc sỹ, càng không vì bản thu của chị là sớm, mà vì trong giọng hát ấy, tôi nghe được tiếng gió đêm đập khẽ vào cánh cửa gỗ, khe khẽ lay để người trong nhà giật mình tỉnh giấc, nhận ra ngoài sân đang có ai đứng chờ – có thể là quá khứ, có thể là tương lai, nhưng tuyệt đối là người thân thương. Bảo Yến hát bằng hơi thở đời thường, bằng nhịp tim của người gom lá khô đốt bếp, bằng ánh mắt chắt chiu của người thả gà trong vườn cải đã quá mùa; chị không đẩy buồn lên đỉnh, chị chỉ để buồn nghiêng nghiêng trên bậu cửa, cho nắng sớm vừa ló đủ ấm hong giọt lệ khô, để rồi ta xếp gọn nỗi buồn vào ngăn ký ức, rảnh tay đi tiếp cuộc đường xa. Có lẽ vì vậy, mỗi khi khép lại bản “Chuyện hợp tan” qua giọng Bảo Yến, tôi luôn thấy đôi vai mình nhẹ hẳn, miệng lẩm nhẩm cười, giống người vừa đặt gánh chợ xuống bậc thềm, nghe chén trà tỏa khói, và biết rằng ngày mai – dẫu mưa hay nắng – vẫn sẽ có một con đường trổ hoa đón bước ta về.
Discussion about this post